

NAMAN CONFERENCE HALL
Nhà Hội Nghị Naman
Specifications | Khái quát
---
Vị trí
Naman Retreat Resort, đường Trường Sa, Đà Nẵng, Việt Nam
Loại hình
hội nghị, sự kiện
Năm thiết kế
2014
Tình trạng
hoàn thiện thi công 2015
Diện tích tổng thể
thuộc về tổng thể của khu nghỉ dưỡng
Diện tích sàn
773 m2
Nhóm thiết kế
Vo Trong Nghia Architects
- Tham gia chính
Trong Nghia Vo (architect in charge), N Quang Dau (team leader - project architect)
- Thành viên khác
-
Kiến trúc sư: Hai Vu, Thuy Duong Ngo, Q Bao Hoang & các Sinh viên - Thực tập sinh
Thông tin thêm về Chức danh
-
Architect in Charge: KTS Chủ trì
-
Team Leader - Project Architect: Trưởng Nhóm - KTS Phụ Trách Dự Án
-
Đậu Nhật Quang - MODS, là KTS phụ trách đồ án này khi còn làm việc cho Vo Trong Nghia Architects.
Tư vấn Kết cấu (phần bê tông)
Viet Structure
- Engineers
Van Canh Tran
Kỹ sư Cơ Điện - CT Nước (MEP)
Thanh Pham
Nhà thầu tre
Vo Trong Nghia Architects
- Quản lý thi công tre
Ba Tuong Nguyen
Nhà đầu tư
Thanh Do Investment Dev and Constr Jsc
Nhiếp ảnh (ảnh hoàn thiện)

---------
---------
Overall Description
THUYẾT MINH TỔNG QUAN
-----
(Đối với các dự án đã hoàn thành, thuyết minh gồm có hai phần Tổng quan và Chi tiết. Trước hết là phần thuyết minh tổng quan từ Vo Trong Nghia Architects)
------
Nhà Hội Nghị là công trình đầu tiên của trong số các cơ sở dịch vụ của Naman Retreat Resort mà du khách bắt gặp khi đến gần quảng trường tiếp đón. Hội trường có sức chứa tối đa 300 người trong một thời điểm và có thể phục vụ cho các nhu cầu khác nhau như hội nghị, thuyết trình, hòa nhạc, hội họp, v.v. Đây là một hội trường hình chữ nhật với mái dốc không đối xứng. Cấu trúc vòm tre khiến cho tòa nhà trông có vẻ hình tượng và ấn tượng. Công trình gồm 2 không gian song song: phòng hội trường kín và hành lang ngoài. Hành lang bên ngoài cũng đóng vai trò như là sảnh ngoài trời để chào đón du khách.
Kết cấu chịu lực chính là các khung tre vượt nhịp 13,5m ở hội trường và 4m ở hành lang với chiều cao mái 9,5m. Sự ấn tượng hình thành bởi vòm tre được tạo ra từ những cây tre uốn cong là một phần của cấu trúc chịu lực chính. Nhờ việc bố trí vách kính mặt tiền lùi vào trong, nên 3 khung của vòm kết cấu này trở thành phần ngoại thất, mở ra lối vào, là không gian đóng vai trò tiền sảnh chào đón các vị khách khi tiếp xúc sử dụng công trình.
Có 2 loại tre được sử dụng cho công trình này. Loại thẳng, tre có tên là Luồng được chọn vì có chiều cao thu hoạch lên đến 8m, dài hơn loại uốn cong và được tổ hợp lại để làm đòn tay mái. Đối với các vòm tre, cây Tầm Vông được sử dụng nhờ đặc tính linh hoạt của nó. Thiết kế bám sát đặc tính của từng loại như vậy là để kết hợp chúng với nhau nhằm có thể mang lại hiệu quả tốt nhất.
Lý do sử dụng tre làm vật liệu chính, ngoài kiến trúc thì còn xuất phát từ yêu cầu của khách hàng muốn có một không gian rộng mở, đơn giản, linh hoạt cho các chức năng khác nhau với chi phí xây dựng hợp lý và tiến độ xây dựng nhanh. Tre có thể cung cấp tất cả các tính năng này. Đây là vật liệu địa phương, giá cả phải chăng và thời gian xây dựng rất nhanh do các khung được lắp dựng sẵn trên nền đất thông thường. Phương pháp xây dựng này được chứng minh là rất hiệu quả và nó đem lại khả năng kiểm soát tốt hơn trong thi công.

ghi chú: ảnh đồ họa

- back of house: nhà điều hành và phụ trợ
- bungalow area: khu ở bungalow
- hotel: khách sạn
- road: đường, lối đi
- roof line: vị trí đường rìa mái
- sand beach: bãi biển
- sea: biển
- to Da Nang Center: hướng đi Trung tâm tp Đà Nẵng
- to Hoi An Old Town: hướng đi phố cổ Hội An
- to the gate of the resort: hướng ra cổng của resort
- to the beach: hướng ra bờ biển
Trường Sa road: đường Trường Sa
1. Lối vào chính
2. Lối vào bên
3. Thềm dưới mái
4. Tiền sảnh
5. Hội trường
6. Khu vệ sinh nữ
7. Khu vệ sinh nam
8. Phòng vệ sinh người
8. khuyết tật
9. Kho nhỏ
10. Phòng giải lao
11. Kho, Kỹ thuật
12. Hồ cảnh nhân tạo
13. Nền cỏ



----
----
Additional Descriptions
PHẦN TRÌNH BÀY BỔ SUNG
-----
(Phần viết bổ sung từ Đậu Nhật Quang, KTS phụ trách đồ án này khi còn làm việc cho Vo Trong Nghia Architects, nay là người thành lập MODS)
Những “cây tre thẳng” đã cùng nhau tạo nên Trung Tâm Hội Nghị Đại Lải (Dai Lai Conference Center) đã được trình bày trong cùng hạng mục Công Trình Công Cộng. Trong dự án đó, chúng tôi có đề cập sơ qua về “tre uốn cong”, và ở bài trình bày này chúng tôi diễn đạt thêm một chút về loài cây này. Tầm Vông - tên tiếng Việt của loài tre này, là loài tre ưu việt ở Việt Nam và một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Cây Tầm Vông không những có thể được dùng làm cột, đòn tay, dầm thẳng vì thân cây chắc đặc như gỗ, người ta còn có thể uốn cong chúng do khả năng chịu uốn của thân cây; cùng với độ đàn hồi tốt mà thân cây có thể mang lại, đóng góp vào các thành phần kết cấu hữu dụng khác và có thể tạo nên các các hình thức kiến trúc khác nhau. Với những đặc tính và khả năng như vậy, ở công trình này, những cây tre Tầm Vông đã giúp người thiết kế mở rộng nhịp khung lên tới 13,5 mét, tạo ra một khán phòng trung bình phục vụ như một hội trường đa chức năng mà tầm nhìn bên trong không bị ngăn trở. Khoảng cách này cũng là nhịp dầm lớn đáng kể đối với bê tông cốt thép trong các công trình dân dụng.
-----
xem các bản vẽ khác



before and after | trước và sau


----
Bài trình bày này có kèm theo các hình ảnh công trường ngay bên dưới. Chúng minh họa cho kết cấu tổng thể rằng: Khung cứng được làm bằng bê tông đổ tại chỗ đóng vai trò là yếu tố phẳng để tạo ra các vách ngăn, và để gắn vách kính, cửa ra vào và cửa sổ. Nó cũng hỗ trợ cho kết cấu tre trong trường hợp có gió rất mạnh ở ven biển. Tuy nhiên, khung bê tông không tham gia làm kết cấu chịu lực chính; trong trường hợp này, kết cấu tre bao gồm các cột tre, xà nhà, các hệ thanh uốn cong lớn và kết cấu mái kết hợp với nhau để trở thành một hệ thống vững chắc mà về cơ bản có thể tự đứng vững. Tất cả các khung tre đã được lắp đặt sẵn ở một địa điểm khác trước khi chúng được chuyển đến địa điểm xây dựng. Những người thợ làm phần bê tông thường thì làm theo bản vẽ nhưng thợ bê tông và thợ tre cũng đã kết nối với nhau để biết rõ tình hình thực tế phần công việc của mỗi bên, đặc biệt là sự xê dịch của từng khoảng khiến các thông số của khung tre khác với bản vẽ. Điều này có thể được giải thích rằng, tre có tính đàn hồi và các bộ phận cấu thành vì kèo hay khung thường tự bung ra lớn hơn. Vì vậy, khi phần bê tông hoàn thành, người thợ tre phải điều chỉnh lại toàn bộ khung tre để đảm bảo phù hợp với phần bê tông. Sau đó, từng khung tre được nâng lên và đặt đúng vị trí trên mặt đất vốn đã được định vị từ trước.




































